|
| Một nguồn gen đậu nành trồng khảo nghiệm tại Trạm Khảo nghiệm đậu nành Tây Nguyên |
Việt Nam thiếu hụt 3,5 – 5,0 triệu tấn đậu nành/năm, và trở thành nước nhập khẩu đậu nành lớn với kim ngạch 2,0 – 3,0 tỷ USD/năm, tương đương kim ngạch xuất khẩu gạo hiện nay.
Điều quan trọng nhất đối với cây đậu nành ở Việt Nam là vùng nguyên liệu ngày càng suy giảm nghiêm trọng, giá đậu nành trong nước cao hơn giá nhập khẩu và khả năng nhập đậu nành biến đổi gen khá cao.
Năm 2013, diện tích đậu nành cả nước là 114.500 ha, năm 2016 giảm còn 98.000 ha. Năm 2020, diện tích giảm trầm trọng chỉ còn 41.700 ha, nếu so với thập niên 1980, diện tích đậu nành luôn ở ngưỡng trên dưới 150.000 ha. Vùng trồng đậu nành truyền thống là Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) và Đông nam bộ, nay không còn bao nhiêu.
Tại ĐBSCL có các vùng sản xuất lớn là thành phố Sa Đéc (Đồng Tháp), Ô Môn (Cần Thơ) và thành phố Vĩnh Long, Long Hồ (tỉnh Vĩnh Long) cần được khôi phục, vì năng suất rất cao (2-3 tấn/ha, trong khi trung bình cả nước là 1,4 tấn/ha).
Còn theo ông Đinh Công Chính - Phó Trưởng Phòng Cây Lương thực, Cây Thực phẩm - Cục Trồng trọt (Bộ NN-PTNT) cho biết, thời gian qua, diện tích và sản lượng đậu nành trong nước liên tục giảm dần qua từng năm. Nếu như năm 2010, diện tích trồng đậu nành đạt 197,8 nghìn ha, thì năm 2021 chỉ còn hơn 37 nghìn ha, giảm hơn 75% so với năm 2010.
Chính thức gieo trồng, khảo nghiệm và đánh giá 1.533 nguồn gen đậu nành
Để chủ động được nguồn nguyên liệu đậu nành cung cấp cho các nhà máy chế biến sữa của công ty, và tránh khả năng nhập khẩu đậu nành biến đổi gen khá cao, Vinasoy đang có chiến lược phát triển 4 vùng nguyên liệu trên cả nước.
Đại diện Vinasoy cho biết, để làm được điều này, Vinasoy đặt trọng tâm vào 2 yếu tố: Nguồn gen và đất trồng có điều kiện thuận lợi để gieo trồng thử nghiệm liên tục, giúp rút ngắn thời gian chọn tạo giống
Ngân hàng gen đậu nành là thành quả lớn của VSAC sau nhiều năm thu thập, nghiên cứu các dòng/giống đậu nành trong và ngoài nước, từ các dòng/giống đậu nành hoang dại đến các dòng/giống đậu nành có các đặc tính chuyên biệt như năng suất cao, đạm cao, kháng sâu bệnh, kháng mặn, kháng phèn… Vinasoy cũng áp dụng công nghệ di truyền phân tử trong công tác chọn tạo giống, vì thế việc xác định giống lai tốt được thực hiện rất nhanh, chính xác và không cần nhiều thời gian chờ đợi có kết quả.
Huyện Cư Jút là vùng trồng đậu nành lớn nhất của tỉnh Đắk Nông, và Vinasoy đã lựa chọn Cư Jút để thành lập Trạm khảo nghiệm đậu nành Tây Nguyên - địa điểm nghiên cứu chọn tạo giống, khảo nghiệm kỹ thuật canh tác để phát triển giống mới cho các vùng nguyên liệu trong cả nước.
Với lợi thế về khí hậu, đất đai thổ nhưỡng, Cư Jút có thể trồng tới 4 mùa đậu nành/năm, giúp việc thử nghiệm đánh giá diễn ra thuận lợi và nhanh chóng hơn, rút ngắn 1/2 thời gian so với phương pháp truyền thống, thậm chí nhanh hơn cả của các trung tâm nghiên cứu có tiếng trên thế giới như ở vùng Costa Rica – Trung Mỹ.
Sau rất nhiều nỗ lực hoàn chỉnh ngân hàng gen và các công nghệ xác định giống tốt, mùa hè năm nay Trạm khảo nghiệm Cư Jút đã chính thức gieo trồng, khảo nghiệm và đánh giá 1.533 nguồn gen đậu nành quý, từ đó, các chuyên gia VSAC sẽ phân tích và lựa chọn những giống gen tốt nhất trong đợt thử nghiệm này cho các vùng nguyên liệu.

Cánh đồng đậu nành của Vinasoy ở Vĩnh Long
Trước đó, Vinasoy đã phát triển được hai giống đậu nành VINASOY 01-CT và VINASOY 02-NS. Giống VINASOY 02-NS được Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn cấp phép lưu hành sản xuất đại trà tại 4 vùng nguyên liệu của Vinasoy: Miền Trung, Tây Nguyên, Đồng bằng sông Hồng (ĐBSH) và ĐBSCL.
Ông Huỳnh Sơn Hải - Giám đốc VSAC chia sẻ: “Ngay từ buổi đầu thành lập, Vinasoy đã quyết tâm đầu tư đến cùng cho vùng nguyên liệu để chủ động được nguồn đậu nành thơm ngon, giàu dinh dưỡng. Vì vậy, Vinasoy đã đầu tư vào đội ngũ kỹ sư, nhà khoa học giỏi nhất, vào công nghệ nghiên cứu tiên tiến nhất trong lĩnh vực đậu nành để mang lại những điều tốt đẹp cho xã hội”.
Vinasoy cũng đã chọn tạo thành công giống đậu nành không biến đổi gen VINASOY 02-NS, có năng suất cao, phù hợp với các dòng sản phẩm và chuyển giao cho nông dân ở các vùng nguyên liệu cải thiện năng suất chỉ từ 1-1,5 tấn lên 2,5-3 tấn/ha.
“Diện tích trồng đậu nành trong nước ngày càng suy giảm, Công ty Sữa Đậu Nành Việt Nam – Vinasoy nên phát triển vùng nguyên liệu đậu nành ở ĐBSCL với giá cả thu mua hợp lý. Tôi nghĩ khi có đầu ra ổn định, nông dân sẽ sẵn lòng liên kết với doanh nghiệp làm nên thương hiệu sữa đậu nành Việt”, GS.TS Bùi Chí Bửu, nguyên Viện trưởng Viện Khoa học kỹ thuật Nông nghiệp miền Nam cho biết.